Trung Quốc thổi bùng đà tăng giá than khi nhập khẩu vọt lên

Huyền Trần
Junior Analyst
Tháng 8, Trung Quốc dự kiến nâng nhập khẩu than nhiệt điện đường biển lên 25.63 triệu tấn – cao nhất từ cuối năm ngoái – do sản lượng trong nước giảm và giá quốc tế rẻ, trong khi Ấn Độ giảm nhập xuống còn 9.74 triệu tấn, mức thấp nhất kể từ đầu 2023 nhờ thủy điện, năng lượng tái tạo tăng mạnh và sản lượng than nội địa mở rộng.
Nhập khẩu than nhiệt điện đường biển của Trung Quốc dự kiến tăng mạnh trong tháng 8, đạt mức cao nhất từ đầu năm, trong khi Ấn Độ – nhà nhập khẩu lớn thứ hai – lại rơi xuống mức thấp nhất trong 3 năm rưỡi.
Sự trái ngược này giữa hai nền kinh tế nhập khẩu than lớn nhất thế giới – loại nhiên liệu chủ yếu dùng để sản xuất điện – phản ánh rõ nét bức tranh khác biệt trong thị trường nội địa: từ sản lượng khai thác cho đến tốc độ phát triển năng lượng tái tạo.
Theo dữ liệu từ hãng phân tích Kpler, nhập khẩu than nhiệt điện đường biển của Trung Quốc ước đạt 25.63 triệu tấn trong tháng 8, tăng so với mức 22.77 triệu tấn của tháng 7 và cao nhất kể từ tháng 12 năm ngoái. Trong đó, nhập khẩu từ Indonesia – nhà xuất khẩu than nhiệt điện lớn nhất – dự kiến đạt 16.13 triệu tấn, mức cao nhất trong 5 tháng, trong khi nhập khẩu từ Úc – nhà cung cấp lớn thứ hai – được dự báo tăng tháng thứ ba liên tiếp lên 5.84 triệu tấn.
Thoạt nhìn, sự gia tăng nhập khẩu của Trung Quốc dường như trái ngược với số liệu chính thức cho thấy sản lượng điện than giảm 1.3% trong giai đoạn tháng 1–7, nhường chỗ cho thủy điện và năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, riêng tháng 7, sản lượng điện than lại tăng 4.3% so với cùng kỳ năm trước, theo dữ liệu công bố ngày 15/8.
Trong khi đó, sản lượng khai thác than trong nước giảm, với mức 380.99 triệu tấn trong tháng 7 – thấp hơn 3.8% so với cùng kỳ và là mức thấp nhất kể từ tháng 4/2024. Sự kết hợp giữa sản lượng điện than tăng, nguồn cung nội địa giảm và giá than quốc tế rẻ đã thúc đẩy Trung Quốc đẩy mạnh nhập khẩu.
Giá than Indonesia loại 4,200 kcal/kg – được Argus đánh giá – rơi xuống mức thấp nhất 4 năm, chỉ còn 40.45 USD/tấn trong tuần kết thúc ngày 4/7, trước khi phục hồi lên mức cao nhất 2 tháng, 43.33 USD/tấn trong tuần đến 22/8 nhờ lực mua từ Trung Quốc. Một xu hướng tương tự cũng diễn ra với than Úc loại 5.500 kcal/kg, khi giá bật lên mức cao nhất 5 tháng, 71.92 USD/tấn trong tuần 22/8, tăng 9.4% so với đáy 4 năm thiết lập hồi tháng 6.
Ngược lại, nhu cầu than nhập khẩu của Ấn Độ lại suy yếu rõ rệt. Kpler dự báo nhập khẩu tháng 8 chỉ đạt 9.74 triệu tấn, giảm từ mức 11.99 triệu tấn của tháng 7 và thấp nhất kể từ tháng 2/2023. Con số này cũng gần như giảm một nửa so với mức đỉnh 17,96 triệu tấn hồi tháng 5.
Sự sụt giảm này đi cùng với việc tỷ trọng điện than trong sản lượng điện toàn quốc của Ấn Độ rơi xuống mức thấp nhất 5 năm trong tháng 7, giảm 4.2% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, sản lượng thủy điện tăng 22.4% và năng lượng tái tạo tăng 14.4%, đủ để bù đắp cho mức tăng 1.8% trong tổng sản lượng điện.
Ấn Độ cũng đang mở rộng khai thác trong nước, khi nhiều doanh nghiệp tư nhân bắt đầu tham gia. Các nhà phân tích kỳ vọng sản lượng than niên độ tài chính bắt đầu từ 1/4 sẽ đạt khoảng 1.15 tỷ tấn, vượt kỷ lục 1.05 tỷ tấn của năm trước.
Hệ quả chính từ bức tranh trái ngược này là: sản lượng than nội địa vẫn là yếu tố then chốt quyết định nhu cầu và giá than đường biển, và Trung Quốc tiếp tục đóng vai trò dẫn dắt. Về dài hạn, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều đang tăng tốc phát triển năng lượng tái tạo đồng thời nâng sản lượng khai thác trong nước, khiến nhu cầu nhập khẩu than nhiệt điện có xu hướng giảm, dù vẫn có những giai đoạn tăng vọt khi nguồn cung nội địa hụt hoặc sản lượng điện than tăng mạnh.
Reuters