Thị trường "ngóng chờ" ngày Fed hạ lãi suất, các doanh nghiệp Mỹ thì không?

Thị trường "ngóng chờ" ngày Fed hạ lãi suất, các doanh nghiệp Mỹ thì không?

Trần Quốc Khải

Trần Quốc Khải

Junior Editor

16:13 12/09/2024

Trong bối cảnh chính sách tiền tệ của Mỹ thay đổi mạnh mẽ, các doanh nghiệp Mỹ đang đứng trước những thách thức lớn về chi phí vay vốn.

Từ đầu năm 2022 đến giữa năm 2023, Fed đã thắt chặt chính sách tiền tệ với tốc độ nhanh nhất kể từ đầu những năm 1980, nâng lãi suất chính sách của Mỹ từ 0-0.25% lên 5.25-5%. Khi các nhà hoạch định chính sách của Fed họp vào ngày 17 và 18 tháng 9, họ gần như chắc chắn sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất. Các nhà đầu tư thậm chí còn tự hỏi liệu họ có bắt đầu với mức giảm 50 bps, để ứng phó với dữ liệu kinh tế yếu hơn dự kiến.

Tuy nhiên, tác động tức thời có thể bị hạn chế. Các nhà hoạch định NHTW từ lâu đã nghĩ rằng chính sách tiền tệ không có tác động tức thời đến nền kinh tế. Nhà kinh tế học lỗi lạc Milton Friedman đã từng mô tả độ trễ giữa điều chỉnh và tác động của chính sách tiền tệ là dài và biến động. Tuy nhiên, trong chu kỳ gần đây nhất, độ trễ, ít nhất là đối với các công ty đi vay, dường như thậm chí còn dài hơn bình thường. Kết quả kỳ lạ là ngay khi các nhà hoạch định chính sách chuẩn bị cắt giảm, có thể là mạnh, thì các điều kiện lãi suất cho một số bộ phận của nền kinh tế sẽ thắt chặt.

Trong các giai đoạn thắt chặt chính sách tiền tệ trước đây, mối quan hệ giữa lãi suất chính sách và khoản thanh toán lãi suất của doanh nghiệp quen thuộc hơn: khi lãi suất tăng thì chi phí vay cũng tăng. Ví dụ, trong chu kỳ tăng lãi suất gần đây nhất của Fed, từ năm 2016 đến năm 2019, chi phí lãi suất ròng của các công ty tăng 9%, đây là cách mà chính sách thắt chặt hoạt động. Bằng cách tăng chi phí vay, Fed giảm đầu tư của doanh nghiệp và làm chậm tốc độ tuyển dụng. Điều này có thể gây thiệt hại cho các doanh nghiệp, nhưng kết quả là nhu cầu thấp hơn và áp lực lạm phát giảm.

Tất cả đã khác trong thời điểm này. Mặc dù lãi suất tăng vọt, khoản thanh toán lãi suất ròng của các công ty đã giảm gần 35%. Nếu mối quan hệ trong các chu kỳ trước vẫn giữ nguyên, thì đáng lẽ ra, chúng sẽ tăng 50%.

Tại sao điều này lại xảy ra? Giải thích đầu tiên là các công ty Mỹ bước vào chu kỳ thắt chặt với lượng tiền dồi dào bất thường. Lượng tiền nắm giữ đã tăng trong thập kỷ trước đại dịch covid-19, sau đó tăng đột biến khi dịch bệnh lây lan và các kế hoạch đầu tư bị hoãn lại. Tiền mặt nắm giữ trong bảng cân đối kế toán của các công ty đã tăng từ mức trung bình 1.1 nghìn tỷ USD trong thập kỷ tính đến năm 2019 lên mức đỉnh ở 2.7 nghìn tỷ USD vào năm 2021. Do đó, lãi suất cao hơn đồng nghĩa với lợi nhuận thu được từ lượng tiền này cao hơn.

Một lời giải thích khác liên quan đến các bên cho vay. Ngay cả khi lãi suất chính sách tăng, nhiều bên vẫn chậm trễ trong việc chuyển chi phí cho người vay. Ví dụ, chênh lệch tính cho các khoản vay đối với những người vay với chất lượng tín dụng cao nhất đã giảm hơn 1.5 điểm phần trăm từ đầu năm 2022 đến giữa năm 2023. Fed Kansas City đã lưu ý rằng điều này là bất thường: chênh lệch thường tăng trong chu kỳ thắt chặt. Dự trữ tiền mặt của các công ty lớn hơn dường như đã mang lại cho các tổ chức sự tự tin để cho vay rộng rãi hơn. Chi phí tăng đối với các công ty, nhưng không nhiều như mong đợi.

Lời giải thích quan trọng nhất liên quan đến hành vi của các giám đốc tài chính. Các công ty Mỹ đã vay rất nhiều cho các hợp đồng dài hạn vào năm 2020 và 2021, sau khi Fed cắt giảm lãi suất và trước khi chu kỳ thắt chặt bắt đầu. Lãi suất thấp đã được ấn định và các công ty tương đối được bảo vệ khỏi việc thắt chặt sau đó. Thật vậy, hiệu suất mạnh mẽ bất thường của chỉ số S&P 500, đã tăng 24% kể từ lần đầu tiên Fed tăng lãi suất, có thể được giải thích một phần bởi sự bảo vệ này.

Tuy nhiên, hiện nay, các hợp đồng cố định đang bắt đầu đến hạn. Các thỏa thuận lãi suất cố định thường kéo dài trong ba đến năm năm. Hơn 2.5 nghìn tỷ USD - một số tiền tương đương với 9% GDP của Mỹ - các khoản vay doanh nghiệp có thời hạn cố định sẽ được tái cấp vốn trước cuối năm 2027, với 700 tỷ USD đến hạn vào năm 2025 và hơn 1 nghìn tỷ USD vào năm 2026. Các lĩnh vực dễ bị rủi ro tái cấp vốn nhất là những lĩnh vực được hưởng lợi nhiều nhất từ ​​các thỏa thuận cố định giá rẻ ngay sau đại dịch, đặc biệt là các nhà sản xuất. Thiệt hại có thể rất đáng kể. Trái phiếu của công ty Mỹ điển hình, phi tài chính, được xếp hạng BBB sẽ hết hạn vào năm 2025 có lãi suất trung bình chỉ 3.8%. Theo xu hướng hiện tại, chúng có thể sẽ được áp mức lãi suất gần 6% khi được phát hành lại. Chi phí lãi vay sẽ tăng khi lãi suất nhận được giảm.

Jerome Powell, chủ tịch Fed, đã ám chỉ rằng hiện ông ủng hộ việc vay vốn rẻ hơn. Tuy nhiên, bất kể Fed làm gì tiếp theo, các công ty Mỹ có khả năng sẽ đối mặt với chi phí lãi vay tăng. Phản ứng chậm trễ đối với việc thắt chặt làm phức tạp thêm công việc của Fed. Mặc dù các nhà hoạch định chính sách của Fed hiện đã sẵn sàng cắt giảm, nhiều công ty vẫn đang trải qua phản ứng chậm trễ từ khi Fed thắt chặt.

The Economist

Broker listing

Cùng chuyên mục

Lại có thêm báo động đỏ trên thị trường trái phiếu: Đấu giá trái phiếu chính phủ yếu kém
Diệu Linh

Diệu Linh

Junior Editor

Lại có thêm báo động đỏ trên thị trường trái phiếu: Đấu giá trái phiếu chính phủ yếu kém

Tuần trước, thị trường trái phiếu Mỹ ghi nhận thêm một tín hiệu cảnh báo khi Bộ Tài chính Mỹ tổ chức đấu giá nhưng gần như không nhận được sự quan tâm từ giới đầu tư. Các nhà phân tích gọi đây là một phiên đấu giá trái phiếu kỳ hạn 10 năm “yếu”. Nói ngắn gọn, nhà đầu tư đã quay lưng với Chính phủ Mỹ, buộc lợi suất trái phiếu phải tăng cao hơn nữa. Nói cách khác, thế giới ngày càng ít mặn mà trong việc cho chính phủ liên bang vay tiền. Đây là vấn đề lớn đối với một quốc gia phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay để tài trợ cho mức chi tiêu khổng lồ.
Súng lệnh bị kẹt: Phố Wall chờ CPI khai hỏa phát súng tiếp theo
Diệu Linh

Diệu Linh

Junior Editor

Súng lệnh bị kẹt: Phố Wall chờ CPI khai hỏa phát súng tiếp theo

Phố Wall bước vào phiên đầu tuần như một vận động viên chạy nước rút đã vào thế xuất phát, cơ bắp căng cứng, mắt nhìn thẳng, chỉ để rồi súng lệnh bị kẹt cò. S&P giảm nhẹ, USD bật tăng, và giới giao dịch cả ngày chỉ dán mắt vào xác suất CPI công bố hôm thứ Ba, coi đó như diễn biến tiếp theo trong màn kịch vốn đã rất kịch tính.
Mỹ áp thuế cao, Ấn Độ khó “đổi hướng” sang năng lượng Mỹ

Mỹ áp thuế cao, Ấn Độ khó “đổi hướng” sang năng lượng Mỹ

Đòn thuế 25% từ Washington đang tạo sức ép buộc New Delhi tăng mua dầu, LNG và than từ Mỹ, song rào cản kinh tế và kỹ thuật khiến mục tiêu này khó thành hiện thực. Giá cao, chi phí vận chuyển lớn, hợp đồng dài hạn với Nga, Qatar, Indonesia và biên lợi nhuận xuất khẩu mỏng khiến Ấn Độ không dễ đánh đổi. Trong khi đó, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất, buộc Ấn Độ vừa phải nhượng bộ một phần vừa tìm cách giữ thế cân bằng trong bàn cờ thương mại và năng lượng toàn cầu.
Ấn Độ chuẩn bị giảm mua dầu Nga để tránh thuế 50% từ Mỹ

Ấn Độ chuẩn bị giảm mua dầu Nga để tránh thuế 50% từ Mỹ

Để tránh mức thuế 50% từ Mỹ, Ấn Độ dự kiến cắt giảm nhập khẩu dầu Nga. Tuy vậy, áp lực từ Washington đang thúc đẩy New Delhi tăng cường ngoại giao đa cực, thể hiện qua chuyến thăm Trung Quốc của Thủ tướng Modi sau bảy năm và duy trì hợp tác quốc phòng với Moscow. Thương mại Ấn – Trung đã tăng mạnh, còn quan hệ với Nga vẫn bền chặt, cho thấy khó có khả năng Ấn Độ rời xa hai đối tác này.
Lạm phát đình đốn nhẹ và rủi ro tập trung: Hai cơn bão kép của thị trường

Lạm phát đình đốn nhẹ và rủi ro tập trung: Hai cơn bão kép của thị trường

Các nhà giao dịch không hẳn là sợ hãi nhưng chắc chắn không an tâm. Màn hình giao dịch sáng rực, loa phát thanh rì rầm, và đâu đó sâu trong “hầm” quyền chọn, có người đang nhắc đến lạm phát đình đốn. Tăng trưởng âm thầm suy yếu trong khi lạm phát vẫn ở mức cao dai dẳng. Bề ngoài, thị trường vẫn như bất khả xâm phạm, S&P 500 đang lơ lửng gần đỉnh lịch sử, trái phiếu chính phủ ghi nhận chuỗi tăng mạnh nhất nhiều năm, đồng USD dao động nhưng giữ được vị thế. Nhưng bên dưới bề mặt, “dây điện” đang nóng dần.
Forex Forecast - Diễn đàn dự báo tiền tệ