Mỹ áp thuế cao, Ấn Độ khó “đổi hướng” sang năng lượng Mỹ

Huyền Trần
Junior Analyst
Đòn thuế 25% từ Washington đang tạo sức ép buộc New Delhi tăng mua dầu, LNG và than từ Mỹ, song rào cản kinh tế và kỹ thuật khiến mục tiêu này khó thành hiện thực. Giá cao, chi phí vận chuyển lớn, hợp đồng dài hạn với Nga, Qatar, Indonesia và biên lợi nhuận xuất khẩu mỏng khiến Ấn Độ không dễ đánh đổi. Trong khi đó, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất, buộc Ấn Độ vừa phải nhượng bộ một phần vừa tìm cách giữ thế cân bằng trong bàn cờ thương mại và năng lượng toàn cầu.
Mức thuế 25% mới được áp dụng đối với hàng hóa Ấn Độ bởi Tổng thống Mỹ Donald Trump trong tuần này được nhiều người xem là một chiến thuật đàm phán nhằm ép Ấn Độ mua thêm các sản phẩm năng lượng và hàng hóa khác của Mỹ trong tương lai.
Nhưng mặc dù nền kinh tế đang phát triển nhanh của Ấn Độ là nền kinh tế lớn thứ năm trên toàn cầu, các nhà nhập khẩu năng lượng của Ấn Độ có thể có ít dư địa để xoay xở hơn so với vẻ bề ngoài.
Biên lợi nhuận hoạt động doanh nghiệp eo hẹp, thị trường tiêu dùng nhạy cảm với chi phí, các hợp đồng nhập khẩu dài hạn ràng buộc và tăng trưởng kinh tế chậm lại đều hạn chế khả năng chi tiêu lớn của Ấn Độ cho dầu mỏ, LNG, than đá và các sản phẩm tinh chế của Mỹ trong ngắn hạn.
Đồng thời, vị trí của Ấn Độ ở khu vực cơ sở của châu Á có nghĩa là nước này gần hơn nhiều với các nhà xuất khẩu sản phẩm năng lượng lớn khác so với Hoa Kỳ, điều này sẽ làm tăng chi phí vận chuyển đáng kể nếu Ấn Độ chuyển sang các sản phẩm có nguồn gốc từ Mỹ.
Không nghi ngờ gì, một số tập đoàn Ấn Độ sẽ bị thuyết phục cam kết mua sắm và đầu tư lớn từ Mỹ trong các cuộc đàm phán thương mại sắp tới, điều này có thể cải thiện tâm lý ở Washington, D.C.
Nhưng các nhà xuất khẩu dầu mỏ, khí đốt, than đá và nhiên liệu của Mỹ, những người hy vọng vào các cam kết mua sắm lớn, khả thi và ràng buộc từ các nhà mua Ấn Độ, có khả năng sẽ phải thất vọng.
Tình thế khó khăn
Không chỉ nhu cầu nhập khẩu là điều mà Ấn Độ phải lo lắng.
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Ấn Độ, và chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ trong những năm gần đây, theo dữ liệu từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Trong năm 2024, giá trị xuất khẩu của Ấn Độ sang Hoa Kỳ đạt hơn 80 tỷ USD, trong khi nhập khẩu từ Mỹ đạt tổng cộng dưới 45 tỷ USD.
Vì Hoa Kỳ lớn hơn gấp đôi so với thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Ấn Độ - Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất - sẽ gần như không thể để quốc gia này thay thế người tiêu dùng Mỹ bị mất bằng các nhà mua khác.
Điều đó có nghĩa là các nhà đàm phán thương mại sẽ tiếp tục cam kết hàn gắn quan hệ thương mại với Washington nhanh nhất có thể, và sẽ xem xét mọi phương tiện khả thi để giảm thiểu mất cân bằng thương mại.
Dầu thô giá rẻ
Sự gia tăng nhanh chóng trong việc mua dầu thô của Nga bởi Ấn Độ kể từ giữa năm 2022 đã là một điểm gây tranh cãi đối với Mỹ và châu Âu, và đã trở thành trọng tâm trong các cuộc đàm phán thương mại gần đây.
Lượng dầu thô nhập khẩu trung bình hàng tháng từ Nga vào Ấn Độ đã tăng từ khoảng 3.2 triệu thùng mỗi tháng trong giai đoạn 2018-2021 lên 50 triệu thùng mỗi tháng kể từ giữa năm 2022, theo dữ liệu từ Kpler.
Sự gia tăng hơn 15 lần trong việc mua dầu Nga của Ấn Độ đã cung cấp cho Moscow nguồn thu nhập nhập khẩu quan trọng trong khi nước này đối mặt với hậu quả từ cuộc chiến ở Ukraine, và làm suy yếu nghiêm trọng các nỗ lực quốc tế nhằm cắt giảm nguồn tài trợ cho Moscow.
Tuy nhiên, mặc dù việc Ấn Độ từ chối tham gia các lệnh trừng phạt do phương Tây dẫn đầu đã gây ra sự phẫn nộ từ cộng đồng quốc tế, sự sẵn sàng tăng cường nhập khẩu dầu Nga của nước này đã đảm bảo rằng các nhà máy lọc dầu và người tiêu dùng nhiên liệu của Ấn Độ được bảo vệ khỏi bất kỳ sự tăng giá dầu toàn cầu nào.
Thực tế, điều ngược lại đã xảy ra khi các nhà nhập khẩu Ấn Độ có thể thương lượng mức chiết khấu lớn từ các nhà bán dầu Nga, những người đang tuyệt vọng tìm kiếm doanh số ở bất kỳ đâu có thể.
Những thùng dầu Nga giá rẻ nhập khẩu đó lần lượt đã cho phép các nhà máy lọc dầu lớn của Ấn Độ như Reliance mở rộng nguồn cung và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước kể từ năm 2020.
Các cơ quan chức năng Ấn Độ đã tuyên bố rằng việc đảm bảo an ninh năng lượng cho dân số 1.4 tỷ người của mình là động lực chính của chương trình nhập khẩu dầu, và rằng các mức thuế mới là không công bằng khi quốc gia này chỉ hành động vì lợi ích riêng của mình.
Hơn nữa, bất kỳ sự chuyển hướng mạnh mẽ nào từ dầu Nga giá rẻ sang dầu thô Mỹ đắt hơn sẽ thay đổi triệt để triển vọng kinh tế cho các nhà máy lọc dầu và người tiêu dùng Ấn Độ, và có khả năng dẫn đến sự tăng vọt giá nhiên liệu gây tổn hại kinh tế.
Kể từ năm 2022, giá chính thức của loại dầu chính của Nga nhập khẩu bởi Ấn Độ trung bình khoảng 70 USD một thùng, rẻ hơn khoảng 10 USD so với giá của loại dầu thô xuất khẩu chính của Mỹ trong cùng kỳ, theo dữ liệu từ LSEG.
Vì các nhà nhập khẩu Ấn Độ có khả năng đã đảm bảo nguồn cung dầu Nga với giá thậm chí còn thấp hơn, mức chiết khấu thực tế so với giá Mỹ có thể còn lớn hơn.
Điều đó đồng nghĩa với việc gần như không có triển vọng nào để các nhà máy lọc dầu Ấn Độ có thể chuyển sang dầu thô Mỹ một cách có lợi nhuận trong thời gian tới, ngay cả khi bị áp lực phải làm như vậy.
Các nhà đàm phán thương mại Mỹ đã quảng bá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Mỹ như một phương tiện để giảm khoảng cách thương mại, vì một lô hàng LNG có thể trị giá hàng triệu USD.
Tuy nhiên, các nhà nhập khẩu sản phẩm năng lượng Ấn Độ có lẽ còn ít khả năng hơn để thay thế các nhà cung cấp hiện tại bằng Mỹ ở đây.
Yếu tố hạn chế chính là các nhà nhập khẩu khí đốt Ấn Độ đã bị ràng buộc vào các thỏa thuận mua sắm dài hạn với các nhà cung cấp như Qatar và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và phải đối mặt với các hình phạt nặng nếu phá vỡ hợp đồng.
Và ngay cả khi các nhà mua Ấn Độ sẵn sàng hủy bỏ những thỏa thuận đó để chuyển sang mua từ Mỹ, họ sẽ phải đối mặt với sự gia tăng chi phí vận chuyển có thể khiến tổng chi phí hàng hóa trở nên không kinh tế.
Thời gian hành trình cho một tàu chở LNG từ Mỹ đến Ấn Độ là khoảng 30 ngày, gấp sáu lần so với chuyến đi từ Qatar.
Các nhà xuất khẩu than đá Mỹ có khả năng sẽ gặp khó khăn tương tự trong việc thay thế Indonesia khỏi đường ống nhập khẩu than của Ấn Độ.
Thời gian vận chuyển từ Indonesia đến Ấn Độ là khoảng 11 ngày, so với khoảng 27 ngày cho chuyến đi từ bờ biển phía Đông của Mỹ.
Khoảng cách lớn như vậy về thời gian hành trình và chi phí vận chuyển có nghĩa là các nhà đàm phán thương mại Ấn Độ có thể không thể dựa vào người tiêu dùng năng lượng của mình để thu hẹp khoảng cách thương mại và sẽ cần tìm kiếm ở nơi khác để đảm bảo một thỏa thuận thương mại với Mỹ.
Reuters