Thế hệ tiền rẻ: Vì sao nhiều người không còn hiểu thế nào là lãi suất bình thường?”
Diệu Linh
Junior Editor
Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, Cục Dự trữ Liên bang đã thực hiện chính sách tiền tệ cực kỳ nới lỏng trong gần một thập kỷ. Điều này không chỉ khuyến khích tạo ra một hố đen nợ và đưa vào nền kinh tế nhiều khoản đầu tư sai lầm, mà còn làm lệch kỳ vọng.
Chúng ta hiện có một thế hệ người làm việc và đưa tin trong lĩnh vực tài chính chưa từng biết môi trường lãi suất “bình thường” trông như thế nào. Nhận thức sai lệch về thực tế tài chính này đang dẫn đến nhiều hành vi sai lệch về tiền tệ hơn nữa.
Giữa cuộc Đại Suy thoái và đại dịch, Fed đã bơm gần 9 nghìn tỷ USD vào nền kinh tế thông qua chính sách nới lỏng định lượng (QE). Fed cũng đã cắt giảm lãi suất xuống mức zero lần đầu tiên vào năm 2008. Lãi suất không tăng lên khỏi mức zero cho đến tháng 12 năm 2015, tức là bảy năm sau đó. Đến năm 2018, Fed chỉ nâng được lãi suất lên mức 2.5%. Tại thời điểm đó, nền kinh tế đã đi ngang và thị trường chứng khoán sụp đổ.
Đến năm 2019, Fed đã cắt giảm lãi suất ba lần và chấm dứt thu hẹp bảng cân đối kế toán. Điều này xảy ra trước khi COVID xuất hiện với những tác động nghiêm trọng. Đại dịch đã mang lại cho ngân hàng trung ương lý do cần thiết để hạ lãi suất về zero một lần nữa. Mãi đến tháng 3 năm 2022, Fed mới bắt đầu chu kỳ tăng lãi suất mạnh mẽ.
Ngân hàng trung ương cuối cùng đã nâng lãi suất lên mức 5.5%. Hầu hết mọi người coi đây là môi trường lãi suất cao, xét đến hàng thập kỷ lãi suất bị kìm nén một cách nhân tạo. Nhưng từ góc độ lịch sử, mức đỉnh này thậm chí còn thấp hơn mức trung bình dài hạn.
Như có thể thấy từ biểu đồ, lãi suất quỹ của Cục Dự trữ Liên bang đạt đỉnh ngay trên mức đỉnh năm 2006. (Bạn cũng nên chú ý đến sự lao dốc mạnh của lãi suất bắt đầu từ năm 2006, rất lâu trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và cuộc Đại Suy thoái.)
Bạn cũng có thể thấy rõ xu hướng đỉnh lãi suất giảm dần theo thời gian. Mỗi mức đỉnh trước một chu kỳ sụp đổ đều thấp hơn khi nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào tiền rẻ.
Kết quả là nền kinh tế cần nhiều tiền rẻ hơn để thổi phồng bong bóng qua từng chu kỳ.
Điểm đáng chú ý nhất trên biểu đồ là gần một thập kỷ lãi suất zero sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Đây là điều thực sự bất thường. Tuy vậy, chúng ta lại có hàng triệu người làm việc trong lĩnh vực tài chính chưa từng trải nghiệm môi trường lãi suất “bình thường” trong suốt sự nghiệp. Họ xem mức zero là gần với chuẩn mực hơn so với mức 5.5%.
Lãi suất thế chấp
Chúng ta cũng thấy sự chênh lệch tương tự giữa nhận thức hiện tại và thực tế lịch sử khi xét đến lãi suất thế chấp.
Lãi suất cho khoản vay thế chấp cố định 30 năm dao động quanh mức 6.3% vào giữa tháng 11. Điều này được xem là “cao.”
Thực tế không phải vậy.
Lãi suất thế chấp từ 6% đến 7% từng được xem là vùng đáy của phạm vi bình thường. Điều này là trước khi Fed bắt đầu bóp méo lãi suất xuống mức thấp thông qua chính sách lãi suất và QE.
Như WolfStreet đã giải thích, “Lãi suất thế chấp từ 6% đến 7% giờ đây chỉ trở thành vấn đề lớn vì giá nhà đã tăng vọt 50% và hơn thế nữa chỉ trong hai năm từ giữa năm 2020 đến giữa năm 2022, sau khi đã tăng mạnh trong nhiều năm, đẩy giá nhà lên mức không còn khả thi về mặt kinh tế.”
Trớ trêu thay, chính sách của Fed chính là nguyên nhân thổi phồng bong bóng nhà đất ngay từ đầu. Gần như thể họ chẳng rút ra được bài học nào từ giai đoạn dẫn đến khủng hoảng nợ dưới chuẩn và sự sụp đổ của hệ thống tài chính năm 2008.
“Sự bùng nổ giá nhà đó là kết quả từ chính sách tiền tệ liều lĩnh của Fed, tạo ra lãi suất thế chấp cố định 30 năm dưới 3%, trong khi lạm phát bắt đầu leo thang và hướng tới mức 9%. Fed, với các chính sách liều lĩnh của mình, đã tạo ra lãi suất thế chấp ‘thực’ âm ở mức -3%, -4% và thậm chí thấp hơn – tốt hơn cả tiền miễn phí. Và khi tiền miễn phí, tâm lý người mua trở nên mơ hồ và giá cả không còn là vấn đề. Sau đó, âm nhạc dừng lại.”
Điều này phần nào lý giải vì sao Cục Dự trữ Liên bang kiên quyết cắt giảm lãi suất dù lạm phát giá cả vẫn dai dẳng. Trong một thế giới hợp lý, Fed sẽ duy trì lãi suất cao hơn và thậm chí có thể tăng thêm. Nhưng thay vào đó, họ lại cắt giảm trong môi trường lạm phát.
Ở một góc độ nào đó, điều này gần như là tất yếu. Sau nhiều thập kỷ lãi suất thấp và nhiều vòng QE, nền kinh tế đã nghiện tiền rẻ. Một nền kinh tế bong bóng đầy nợ không thể hoạt động trong môi trường lãi suất bình thường. Nó cần thêm liều thuốc tiền rẻ. Fed buộc phải chọn: giữ các bong bóng tiếp tục phình to hoặc đối mặt với lạm phát.
Họ đã chọn bong bóng và chấp nhận đầu hàng trước lạm phát.
Nhưng cũng nên tin rằng kỳ vọng về chính sách tiền tệ nới lỏng là một dạng tiên tri tự ứng nghiệm. Miễn là mọi người nghĩ rằng lãi suất thấp và in tiền là chuẩn mực, sẽ chẳng có nhiều phản kháng đối với các hành vi sai lệch về tiền tệ. Và sau nhiều thập kỷ tiền rẻ, mọi thứ trông như thể đó là điều bình thường. Đây là ví dụ điển hình về cách nhận thức định hình thực tế.
Nhưng nhận thức không phải là thực tế. Thế giới tiền rẻ mà chúng ta đang sống không hề bình thường. Và việc tự thuyết phục rằng nó bình thường sẽ không thay đổi được những tác động tiêu cực.
fxstreet