Dự luật thuế của đảng Cộng hòa phớt lờ hàng thập kỷ nghiên cứu kinh tế

Nguyễn Tuấn Đạt
Junior Analyst
Dự luật ngân sách mà đảng Cộng hòa hiện đang cố gắng thúc đẩy thông qua Hạ viện bao gồm những cắt giảm mạnh đối với hai chương trình lớn nhất giúp người Mỹ có thu nhập thấp: Medicaid và Supplemental Nutrition Assistance Program. Một phần lý do cho những cắt giảm này, ngoài việc tạo không gian cho việc cắt giảm thuế, dường như là việc sử dụng tiền công để giúp những người có thu nhập thấp là lãng phí và không hiệu quả.

Cách đây không lâu, một số nhà kinh tế có thể đã đồng ý. Nhưng thời thế thay đổi, và bằng chứng kinh tế cũng vậy. Sau nhiều thập kỷ nghiên cứu, các nhà kinh tế học hiện xem chi tiêu cho những người Mỹ có thu nhập thấp không phải là từ thiện mà là một khoản đầu tư. Theo nghĩa đó, dự luật thuế không chỉ sai lầm trong thời điểm kinh tế khó khăn này, mà còn là một tàn tích của một kỷ nguyên kinh tế đã qua.
Một phần lý do khiến nhiều người từng cho rằng trợ giúp người nghèo là kém hiệu quả bắt nguồn từ lịch sử của chương trình Aid to Families with Dependent Children (AFDC), ra đời năm 1935. Đây là chương trình trợ cấp tiền mặt dành cho trẻ em nghèo, chủ yếu trong các gia đình đơn thân. Ngay từ đầu, AFDC đã vấp phải nhiều chỉ trích, đặc biệt trong thập niên 1980 với hình ảnh mang tính kỳ thị gọi là “nữ hoàng phúc lợi” – một huyền thoại cho rằng phụ nữ sống bằng trợ cấp sẽ sinh thêm con để nhận nhiều tiền hơn, và con cái họ cũng sẽ lặp lại vòng luẩn quẩn phụ thuộc này khi mang thai ở tuổi vị thành niên. Tuy nhiên, điều này chủ yếu là sự thổi phồng thiếu căn cứ, góp phần tạo ra quan điểm sai lầm rằng các chương trình phúc lợi là lãng phí và khuyến khích lối sống không lao động. Huyền thoại ấy đã che khuất những vấn đề thiết kế thực sự của chương trình, như việc cắt trợ cấp hoàn toàn khi người nhận có thu nhập, vô tình tạo ra rào cản lớn đối với việc đi làm.
Vấn đề lớn nhất của chương trình AFDC ở cách chính sách được thiết kế. Cụ thể, AFDC cắt giảm trợ cấp tương ứng với từng đô la thu nhập mà người nhận kiếm được, khiến việc đi làm không mang lại lợi ích tài chính thực sự. Về bản chất, đó là một loại thuế thu nhập 100% áp lên những người nghèo nhất, tạo ra động cơ ngược và vô tình khuyến khích họ ở lại trong tình trạng không việc làm. Chương trình này kết thúc vào năm 1996, nhưng bài học quan trọng còn nguyên giá trị: không thể dùng tình trạng việc làm như một thước đo duy nhất cho nhu cầu hỗ trợ. Trong một thị trường lao động mà một phần tư người Mỹ làm việc với mức lương thấp, ít bảo vệ và lịch làm việc bấp bênh, thì việc có việc làm không đồng nghĩa với việc có thể tự trang trải cuộc sống mà không cần đến sự hỗ trợ từ nhà nước.
Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách thế kỷ 21 đã xem xét những bài học này. Các chương trình như Supplemental Nutrition Assistance (SNAP) loại bỏ dần các khoản trợ cấp. Medicaid mở rộng để bao phủ lực lượng lao động lương thấp đến mức hai phần ba người thụ hưởng đang làm việc.
Các nhà nghiên cứu và những người ủng hộ cũng trở nên thông minh hơn. Họ đã tỉ mỉ ghi lại lợi ích kinh tế của việc giúp đỡ những người gặp khó khăn. Thực tế, họ đã thành công trong việc định hình lại cuộc tranh luận: Hỗ trợ người nghèo không phải là chi tiêu cho con người, mà là đầu tư vào con người. Chi tiêu đòi hỏi phải chứng minh cho con người; đầu tư đòi hỏi phải chứng minh cho lợi ích.
Bối cảnh cho tất cả những điều này là cuộc cách mạng thực nghiệm trong nghiên cứu kinh tế, bắt đầu vào những năm 1990 và cuối cùng được công nhận vào năm 2021 với giải Nobel. Loại nghiên cứu này, mà ủy ban Nobel mô tả là sử dụng "thí nghiệm tự nhiên" để trả lời "các câu hỏi trung tâm cho xã hội", đã vừa làm sắc bén vừa mở rộng khả năng của ngành để đánh giá chính sách công.
Các nhà kinh tế đã đưa ra rất nhiều bằng chứng về tác động nhân quả của một chương trình và sau đó chuyển những tác động nhân quả đó thành lợi ích kinh tế. Chẳng hạn, nghiên cứu được công bố trong tháng này sử dụng sự khác biệt về thời điểm mở rộng Medicaid của các tiểu bang để cho thấy mức độ hiệu quả của việc bao phủ này: Nó giảm tỷ lệ tử vong 21% cho những người đăng ký mới, với chi phí thấp hơn nhiều so với những gì họ đóng góp cho nền kinh tế.
SNAP cũng mang lại lợi ích kinh tế khổng lồ, chỉ đơn giản vì nó đưa tiền vào tay những người nhanh chóng chi tiêu. Bộ Nông nghiệp ước tính rằng trong thời kỳ suy thoái, cứ mỗi 1 tỷ USD chi cho chương trình sẽ làm tăng GDP thêm 1.5 tỷ USD. Và đó thậm chí còn chưa tính đến lợi ích từ việc cải thiện kết quả học tập và sức khỏe tốt hơn ở trẻ em người thụ hưởng, cả hai đều liên quan đến thu nhập cao hơn khi trưởng thành.
Khung đầu tư-lợi ích này cũng có thể áp dụng cho các chương trình đề xuất. Chẳng hạn, một bài báo ước tính rằng chương trình nghỉ phép gia đình có lương phổ thông sẽ tạo ra ít nhất 7,000 USD lợi nhuận (và lên đến 29,000 USD) cho mỗi 1,000 USD chi ra vì nó giúp cha mẹ gắn bó với lực lượng lao động và cải thiện sức khỏe của trẻ sơ sinh. Một nghiên cứu khác gợi ý rằng một khoản trợ cấp trẻ em cố định, hoặc khoản tín dụng thuế trẻ em được hoàn lại đầy đủ và mở rộng như Mỹ đã có vào năm 2021, sẽ tạo ra 10 USD hoạt động kinh tế dài hạn cho mỗi 1 USD chi ra vì nó có thể giúp hàng triệu trẻ em thoát nghèo, và những đứa trẻ lớn lên trong nghèo đói kiếm được ít tiền hơn, có sức khỏe kém hơn, và phạm tội nhiều hơn những đứa trẻ không nghèo.
Lợi ích từ việc đầu tư vào các gia đình có thu nhập thấp lớn đến vậy là vì có hàng triệu người Mỹ không thể phát huy hết tiềm năng kinh tế của mình. Thần thoại có thể đưa ra một câu chuyện về cách đổ lỗi cho họ vì điều đó. Nghiên cứu và bằng chứng đưa ra ước tính về mức độ tổn thất của nền kinh tế vì điều đó.
Các thành viên Quốc hội có thể được tha thứ vì không nắm rõ nghiên cứu và tư duy kinh tế mới nhất, hoặc vì bám giữ những niềm tin lỗi thời. Nhưng không thể tha thứ cho sự cố ý phớt lờ.
Trong cuộc tranh luận về dự luật này, các nhà kinh tế, nhà nghiên cứu và những người ủng hộ đã nói rõ ràng và mạnh mẽ về việc những cắt giảm nghiêm trọng của nó sẽ tàn khốc đến mức nào đối với những người phụ thuộc vào các chương trình này và đối với nền kinh tế hưởng lợi từ chúng. Có thể chúng tôi không có trọng lượng như, chẳng hạn, việc Moody’s hạ xếp hạng. Nhưng thông điệp cũng rõ ràng: Đừng thông qua dự luật này. Nếu Quốc hội từ chối lắng nghe, họ sẽ chẳng khác gì một đứa trẻ mới biết đi bướng bỉnh, bịt tai, la hét để tránh nghe người lớn nói.
Bloomberg