Kinh tế học có thể dạy điều gì cho chính sách đối ngoại của một quốc gia?

Kinh tế học có thể dạy điều gì cho chính sách đối ngoại của một quốc gia?

10:26 25/07/2025

Các thế lực bá quyền nên quan tâm đến cả những quốc gia nhỏ bé.

Thị trường hoạt động tốt nhất khi nhiều công ty tranh giành sự ưu ái của khách hàng. Thị trường hoạt động kém hiệu quả khi một vài công ty thống trị, chia chác doanh số giữa họ. Do đó, các nhà kinh tế cần một thước đo để đánh giá liệu thị trường đang cạnh tranh hay tập trung.

Thước đo nổi tiếng nhất được Albert Hirschman phát minh vào năm 1945. Nó bắt đầu bằng cách cộng các bình phương thị phần của từng nhà cung cấp. Điều này khiến nó phản ánh được cả số lượng nhà cung cấp và mức độ bất bình đẳng giữa họ. Là một chỉ số chủ chốt trong các cuộc điều tra chống độc quyền, chỉ số này với những sửa đổi nhỏ xuất hiện tại tòa án và lớp học. Hầu như mọi sinh viên kinh tế đều biết đến nó.

Ít ai biết rằng Hirschman đã phát minh ra chỉ số này để đo lường một thứ khác: sức mạnh kinh tế do các quốc gia nắm giữ. Nó xuất hiện trong một cuốn sách xem xét thương mại như một nguồn “áp lực và đòn bẩy chính trị”. Nước Đức của Hitler đã gây ảnh hưởng lên các nước láng giềng trong những năm 1930 không chỉ thông qua “sự xảo quyệt quỷ quyệt” mà còn nhờ sức hút của nền kinh tế.

Hirschman bác bỏ niềm tin ngây thơ rằng vì thương mại là tự nguyện và cùng có lợi, nên nó vô hại về mặt địa chính trị. Lợi ích có thể là đôi bên cùng có lợi mà không cần đối xứng. Và nếu một quốc gia phụ thuộc vào mối quan hệ ít hơn đối tác của mình, họ có thể giành được nhượng bộ bằng cách đe dọa rút lui.

Nhà kinh tế học người Đức này sẽ không ngạc nhiên trước thuế quan của Tổng thống Donald Trump hay thậm chí là những nỗ lực cưỡng ép kinh tế của chính Trung Quốc, bao gồm các hạn chế xuất khẩu đối với các đầu vào quan trọng, chẳng hạn như đất hiếm. Do đó, theo Christopher Clayton của Trường Quản lý Yale, Matteo Maggiori của Đại học Stanford và Jesse Schreger của Trường Kinh doanh Columbia, đây là thời điểm thích hợp để khơi dậy tinh thần nghiên cứu của ông. Họ đang tìm cách áp dụng bộ công cụ kinh tế học hiện đại vào địa chính trị. Kết quả là thứ mà họ gọi là "địa kinh tế" (mượn thuật ngữ do Edward Luttwak, một sử gia và chiến lược gia quân sự, đặt ra vào năm 1990). Dù chủ đề được gọi là gì, thì nó cũng không thể tránh khỏi. Ba năm trước, người ta đã hỏi các tác giả địa kinh tế là gì. Giờ đây, họ được yêu cầu không nói quá nhiều về ông Trump.

Trong mô hình của họ, các nền kinh tế lớn - những thế lực bá chủ - có thể đưa ra yêu cầu đối với các nền kinh tế nhỏ hơn bằng cách áp đặt những biện pháp trừng phạt kinh tế. Những tổn thất mà một quốc gia phải gánh chịu nếu từ chối những yêu cầu đó là thước đo sức mạnh mà thế lực bá chủ đó nắm giữ. Các quốc gia nhỏ hơn có thể cố gắng tự bảo vệ mình trước bằng cách tách rời và đa dạng hóa nền kinh tế. Tuy nhiên, theo mô hình của các tác giả, họ có thể làm quá mức cần thiết. Các mạng lưới kinh tế, dù là hệ thống ngân hàng, hệ sinh thái công nghiệp hay chính thương mại toàn cầu, sẽ tăng giá trị khi có nhiều người tham gia hơn. Nếu một quốc gia rút lui để tự bảo vệ mình, điều đó sẽ khiến mạng lưới đó kém hấp dẫn hơn đối với các quốc gia khác. Điều đó cũng có thể thay đổi tính toán của họ theo hướng có lợi cho việc tách rời.

Để ngăn cản các quốc gia tự cô lập, một bá chủ có thể hứa sẽ không lạm dụng quyền lực của mình quá mức. Họ có thể nói, "Hãy làm ăn với tôi. Sau này tôi sẽ không bắt nạt anh như điên đâu. Tôi chỉ bắt nạt anh một chút thôi", như ông Maggiori đã nói. Ví dụ, bá chủ có thể tuân theo các quy tắc thương mại quốc tế đặt ra mức trần cho thuế quan của mình. Nếu các quy tắc này đáng tin cậy, chúng có thể mang lại lợi ích cho bá chủ cũng như cho tất cả mọi người. Trong các mô hình này, các quy tắc thương mại xuất hiện không phải là kết quả của việc lập kế hoạch "toàn cầu hóa", mà là một hành động vì lợi ích cá nhân sáng suốt của bá chủ. Các mô hình này đưa ra lập luận dân tộc chủ nghĩa cho chủ nghĩa đa phương.

Lý thuyết của họ cũng hỗ trợ việc đo lường. Theo tinh thần của Hirschman, họ tính toán các chỉ số quyền lực của riêng mình, dựa trên thị phần và mức độ dễ dàng thay thế các đầu vào nhập khẩu. Các tính toán của họ đưa ra một hàm ý quan trọng của lý thuyết: quyền lực không tăng theo đường thẳng. Nó có xu hướng tăng vọt khi thị phần của bá chủ đạt gần 100%. Có một sự khác biệt rất lớn giữa việc chiếm lĩnh phần lớn thị trường và chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường. Điều tương tự cũng đúng với các đầu vào khó thay thế. Có một sự khác biệt lớn giữa việc có ít sản phẩm thay thế và không có, hoặc gần như không có.

Kết quả này hoàn toàn dễ hiểu. Nếu một nước Mỹ thù địch cung cấp 80% dịch vụ tài chính nước ngoài của một quốc gia, các nhà cung cấp khác của quốc gia đó sẽ phải mở rộng doanh số lên 400% để thay thế (tăng từ 20 lên 100 tương đương với mức tăng trưởng 400%). Nếu thay vào đó, Mỹ cung cấp 90%, các nhà cung cấp thay thế sẽ phải mở rộng 900%. Việc tăng thị phần thêm 10 điểm phần trăm sẽ tạo ra sự khác biệt 500 điểm phần trăm.

Tất cả những điều này đều có ý nghĩa thực tế. Mỹ và các đồng minh chiếm một phần lớn thị phần dịch vụ tài chính của thế giới. Việc thêm một quốc gia như Singapore vào liên minh có vẻ không phải là một phần thưởng lớn. Nhưng nó sẽ tạo ra sự khác biệt lớn; một sự gia tăng nhỏ trong một thị trường lớn mang lại lợi ích quyền lực không cân xứng.

Bắt nạt họ

Điều tương tự cũng đúng theo chiều ngược lại. Ngay cả những nỗ lực nhỏ để tách khỏi một thế lực bá quyền hung hăng cũng có thể làm suy yếu sức mạnh của nó ở một mức độ đáng ngạc nhiên. Ví dụ, các đối thủ của Mỹ đang thử nghiệm các lựa chọn thay thế cho đồng đô la trong tài chính quốc tế. Những lựa chọn thay thế này không nhất thiết phải ngang bằng với đồng đô la để làm xói mòn ảnh hưởng tài chính của Mỹ. Theo các tác giả, nếu họ có thể chiếm được dù chỉ 10% thị phần ở các quốc gia vừa và nhỏ, họ có thể tạo ra sự khác biệt lớn. Họ lập luận rằng việc tăng từ 1% thị phần lên 10% có thể làm giảm sức mạnh tài chính của Mỹ tương đương với việc tăng từ 10% lên 50%. Theo logic này, các loại tiền tệ như đồng nhân dân tệ của Trung Quốc có thể làm suy yếu đồng đô la ngay cả khi chúng không bao giờ soán ngôi đô la.

Cuốn sách của Hirschman, trong đó ông phác thảo chỉ số của mình, phần lớn đã bị giới kinh tế lãng quên cho đến gần đây. Theo các ông Clayton, Maggiori và Schreger, các nhà khoa học chính trị và các học giả khác hiện chiếm phần lớn các trích dẫn của nó. Ba tác giả hy vọng sẽ khơi dậy sự quan tâm đến công trình của Hirschman trong giới kinh tế học. Nhà phát minh ra chỉ số độc quyền nổi tiếng nhất này chắc chắn sẽ thu hút được lượng độc giả rộng rãi và đa dạng hơn.

The Economist

Broker listing

Cùng chuyên mục

Forex Forecast - Diễn đàn dự báo tiền tệ